Flavonoid là một nhóm lớn của các hợp chất phenol thực vật có cấu trúc cơ bản là diphenylpropan (C6-C3-C6). Flavonoid là nhóm hợp chất thường gặp trong thực vật. Nhiều loại rau quả và dược liệu thường dùng có chứa nhóm hợp chất này. Phần lớn các chất flavonoid có màu vàng. Tuy nhiên, cũng có một số phân nhóm hay chất thuộc flavonoid nhưng không có màu hay có màu cam, đỏ, tím, xanh. Cũng cần chú ý rằng có một số nhóm hợp chất khác trong thực vật cũng có màu nhưng không thuộc flavonoid như carotenoid, anthranoid, xanthon, betain.
Một số cây thuốc chứa flavonoid như:
1. Hoa hòe
Flos Styphnolobii japonici imaturi
Dược liệu là nụ hoa đã phơi hay sấy nhẹ đến khô của cây Hòe [Styphnolobium japonicum (L.) Schott, Syn. Sophora japonica L.], họ Đậu (Fabaceae).
Đặc điểm thực vật và phân bố
Cây gỗ, to, cao có thể đến 15m, thân thẳng có chỏm lá tròn. Cành cong queo. Lá kép lông chim lẻ, có 9 – 13 lá chét hình trứng, đỉnh nhọn, nguyên, dài 3cm, rộng 1,5 – 2,5 cm. Cụm hoa hình chùy ở đầu cành. Tràng hoa hình bướm màu trắng ngà. Quả loại đậu không mở, dày và thắt nhỏ lại ở giữa các hạt. Ở nước ta, Hòe được trồng ở một số tỉnh miền Bắc, nhiều nhất ở Thái Bình. Chúng ta đã xuất khẩu Hoa hòe và rutin.

Thành phần hóa học
Thành phần chính của nụ hoa gồm các flavonoid và các triterpenoid tự do. Trong đó, quan trọng nhất là flavonoid.
Flavonoid chính trong nụ hoa là rutin (rutosid). Hàm lượng có thể đến 28% hay cao hơn. Ngoài rutin trong Hoa hòe còn có các flavonoid khác như quercetin, kaempferol, genistein…
Thành phần triterpenoid trong nụ hoa bao gồm betulin là dẫn chất triterpenoid nhóm lupan, sophoradiol là dẫn chất của nhóm olean.
Tác dụng và công dụng
Rutin có hoạt tính vitamin P, có tác dụng làm bền và làm giảm tính thấm của mao mạch, làm tăng bền vững
hồng cầu. Rutin làm giảm trương lực cơ trơn và chống co thắt.
Rutin được dùng chủ yếu để phòng những biến cố của bệnh xơ vữa động mạch, điều trị các trường hợp suy yếu tĩnh mạch, các trường hợp xuất huyết như chảy máu cam, ho ra máu, xuất huyết tử cung, phân có máu. Rutin còn được dùng trong các trường hợp tổn thương ngoài da do bức xạ, làm cho vết thương mau lành sẹo.
Rutin rất ít độc, tuy nhiên không được dùng trong trường hợp nghẽn mạch và máu có độ đông cao.
Dùng dưới dạng viên 0,02 g. Có thể phối hợp với các thuốc khác như vitamin C, các alcaloid của Dừa cạn, papaverin…
2. Diếp cá
Herba Houttuyniae cordatae
Dược liệu là bộ phận trên mặt đất đã phơi hay sấy khô của cây Diếp cá có tên khác là Ngư tinh thảo (Houttuynia cordata Thunb.), họ Lá giấp (Saururaceae).
Đặc điểm thực vật:
Cây thuộc thảo, thân ngầm, rễ mọc ở các đốt. Thân trên mặt đất mọc đứng cao 40 cm, có lông. Lá hình tim, mềm nhẵn, mặt dưới tím nhạt, khi vò có mùi tanh như cá, do đó có tên là diếp cá hay ngư tinh thảo. Cụm hoa là bông, màu vàng không có bao hoa, có 4 lá bắc trắng; tất cả trông như một cái hoa. Quả nang mở ở đỉnh. Cây mọc hoang ở những nơi ẩm thấp. Ở miền nam được trồng nhiều làm rau sống.

Thành phần hóa học:
Các flavonoid: quercitrin, isoquercitrin… Tinh dầu, alkaloid….
Tác dụng và công dụng:
Tác dụng kháng nhiều loại virus, làm bền mao mạch. Diếp cá còn có tác dụng kháng viêm, thông tiểu. Dược điển Trung Quốc chỉ định dùng Diếp cá trong các trường hợp áp xe phổi, ho khó thở, lỵ, nhiễm trùng đường tiểu, mụn nhọt.
Nhân dân ta có kinh nghiệm dùng Diếp cá tươi để chữa đau mắt đỏ có tụ máu (giã nhỏ lá, ép vào 2 miếng giấy bản, đắp ào mắt), bệnh trĩ (hãm lấy nước uống và rửa). Diếp cá là thứ rau ăn sống thông thường. Đây cũng là nguồn cung cấp vitamin P cho cơ thể.
Ngày dùng 6 – 12 g, dạng thuốc sắc, viên hoặc rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước uống.
3. Râu mèo
Herba Orthosiphonis spiralis
Dược liệu là thân, cành mang lá, hoa đã phơi hay sấy khô của cây Râu mèo [Orthosiphon spiralis (Lour.) Merr.], họ Hoa môi (Lamiaceae).
Đặc điểm thực vật:
Cây thuộc thảo cao 30 – 60cm, thân có cạnh ít phân nhánh. Lá mọc đối chéo chữ thập, các cặp lá hơi xa nhau, có cuống ngắn (0,5 – 2 cm), phiến lá gần hình thoi dài 4 – 8cm, rộng 2 – 4cm, mép lá có răng cưa ở 2/3 phía trên. Ở một số chủng thì cuống và gân chính màu tía. Cụm hoa ở ngọn thưa gồm 6 – 10 vòng, mỗi vòng có 6 hoa. Đài hình chuông có 5 răng. Tràng 2 môi màu trắng hay lơ nhạt. Nhị mọc thò ra ngoài gấp 2 – 3 lần tràng trông như râu mèo.
Cây Râu mèoOrthosiphon spiralis Lour. |
Thành phần hóa học:
Thành phần chính là các flavonoid. Ngoài ra còn có coumarin, diterpen, acid hữu cơ, saponosid…
Tác dụng và công dụng:
Cây Rây mèo là một dược liệu có tác dụng lợi tiểu mạnh, giúp cho sự bài tiết chlorid, urê, acid uric, đồng thời là một thuốc thông mật.
Cây Râu mèo là một dược liệu đã dùng lâu đời chữa các bệnh về thận và bàng quang đặc biệt là sỏi thận, viêm túi mật, bí tiểu tiện, phù thũng.
Ngày dùng 5 – 6 g, dạng thuốc sắc, hãm, cao lỏng.
4. Kim ngân hoa
Flos Lonicerae
Dược liệu là nụ hoa có lẫn một số hoa phơi hay sấy khô của cây Kim ngân (Lonicera japonica Thunb.) và một số loài khác cùng chi như L. dasystyla Rehd.; L. confusa DC. và L. Cambodiana Pierre, họ Kim ngân (Caprifoliaceae).
Đặc điểm thực vật và phân bố:
Loài Kim ngân Lonicera japonica Thunb. là loại dây leo, thân to bằng chiếc đũa dài tới 9 – 10 m, có nhiều cành, lúc non màu xanh, khi già màu đỏ nâu. Lá hình trứng, mọc đối, phiến lá rộng 1,5 – 5 cm, dài 3 – 8 cm. Cây quanh năm xanh tươi, mùa rét không rụng lá do đó còn có tên là nhẫn đông. Hoa mẫu 5, mọc thành xim 2 hoa ở kẽ lá. Hoa thơm, khi mới nở có màu trắng, sau chuyển thành vàng. Vì trên cây cùng có hoa trắng và hoa vàng nên mới gọi là Kim ngân. Tràng hợp dài 2 – 3 cm, chia làm 2 môi dài không đều nhau, một môi mỏng lại chia thành 4 thùy nhỏ. Năm nhị đính ở họng tràng, mọc thò ra ngoài. Quả mọng hình cầu màu đen.
Cây Kim NgânLonicera japonica Thunb |
Cây mọc hoang ở các miền rừng núi như Cao Bằng, Hòa Bình, Thanh Hóa, Lào Cai…
Có thể trồng bằng giâm cành.
Thành phần hóa học:
Trong nụ hoa có các nhóm hợp chất sau: các dẫn chất caffeoyl quinic, flavonoid, iridoid và saponin.
Một số chất carotenoid: caroten, β-cryptoxanthin, auroxanthin.
Acid chlorogenic và các đồng phân của nó.
Tác dụng và công dụng:
Kim ngân có tác dụng kháng khuẩn trên một số vi khuẩn thuộc các chi Staphylococcus, Streptococcus, Shigella, Salmonella và một số loại virus.
Kim ngân có tác dụng ngăn cản sự tích tụ mỡ ở bụng.
Kim ngân được dùng chủ yếu để trị các viêm nhiễm đường hô hấp trên như viêm amidan, mụn nhọt, sưng vú; trị lỵ trực trùng, viêm màng kết do siêu vi, cúm.
Liều dùng: 6 – 15 g có thể đến 30 g. Dạng thuốc sắc, hãm, hoàn tán.
5. Actiso
Folium Cynarae scolymi
Dược liệu là lá phơi hoặc sấy khô của cây Actisô (Cynara scolymus L.), họ Cúc (Asteraceae).
Đặc điểm thực vật và phân bố:
Cây thuộc thảo, lớn. Vào năm thứ nhất cây có một vòng lá, lá to dài có thể hơn 1 m, rộng có thể hơn 50 cm, lá xẻ sâu thành nhiều thùy, màu trắng nhạt ở mặt dưới vì có nhiều lông nhung, gân lá nổi rõ. Vào năm thứ 2 từ giữa vòng lá có thân mọc lên cao đến 1,5 m, phía trên có phân cành. Thân mang lá không cuống, nhỏ hơn, hơi phân thùy hoặc gần nguyên. Cụm hoa hình đầu to có đường kính 6 – 15mm, được bao bọc bởi một bao chung lá bắc, hình trứng, các lá bắc mẫm ở gốc, nhọn ở đỉnh. Đế hoa nạc mang những hoa hình ống màu lơ. Lá bắc non dùng làm thực phẩm. Quả đóng màu nâu sẫm, bên trên có mào lông trắng óng.
Cây ActisoCynara scolymus L. |
Cây của vùng Địa Trung Hải. Actiso thích hợp ở vùng
khí hậu mát, được di thực vào nước ta những năm 1930. Hiện nay được trồng nhiều ở lâm Đồng lấy cụm hoa làm thực phẩm cũng như làm thuốc. Cây cũng đã được trồng ở SaPa và phát triển tốt.
Thành phần hóa học:
Thành phần chính của lá Actisô là các acid phenol dẫn xuất từ acid caffeic. Hàm lượng các acid này có thể tới 6% trong lá khô. Ngoài ra còn có các dẫn chất sesquiterpen lacton với hàm lượng có thể tới 5% và các flavonoid (0,35 – 1,0%). Trong các acid phenol, cynarin (acid 1,3-dicaffeyl quinic) được coi là hoạt chất chính.
Ngoài ra trong Actisô còn có chất nhầy, pectin, acid malic, các sterol, một sapogenin, tannin và inulin.
Tác dụng và công dụng:
Tác dụng của Actisô: tăng tiết mật, phục hồi tế bào gan, tăng chức năng chống chất độc của gan, phòng bệnh xơ vữa động mạch, làm hạ cholesterol, thông tiểu. Để chữa các bệnh sỏi bàng quang, phù thũng, các bệnh về gan mật.
Ngày dùng 6 – 12 g, dạng thuốc sắc, hãm, siro, cao lỏng, cao mềm, thuốc tiêm ….
Hiện nay trên thị trường có dạng trà hòa tan hoặc trà túi lọc.
6. Tô mộc
Lignum Sappan
Dược liệu là gỗ lõi để nguyên hay chẻ nhỏ được phơi hay sấy khô của cây Vang hay còn gọi là Gỗ vang (Caesalpinia sappan L.), họ Đậu (Fabaceae).
Đặc điểm thực vật:
Cây gỗ cao 7 – 10 m, thân có gai. Lá kép lông chim, gồm 12 đôi lá chét hoặc hơn; lá chét mặt trên nhẵn, mặt dưới có lông. Cánh hoa có lông, bầu có lông. Quả dẹt, nở về phía đỉnh và nhô ra thành mỏ, có 4 hạt. Cây mọc hoang và được trồng một số nơi ở nước ta.
Thành phần hóa học:
Trong gỗ các hợp chất neoflavonoid là brazilin, 3-O-methylbrazilin, brazilein. Brazilin là chất có tinh thể màu vàng. Ngoài ra còn có dẫn chất chalcon, sapanin, các homoisoflavonoid, acid palmatic, tannin và acid gallic.
Tác dụng và công dụng:
Tô mộcCaesalpinia sappan L.. |
Tô mộc có tác dụng kháng khuẩn rõ đối với các vi khuẩn Staphylococcus, Shigella, Bacillus …
Tô mộc cải thiện tuần hoàn máu làm mất đi sự ứ huyết, giảm viêm và đau.
Dùng chữa mất kinh, loạn kinh, ứ huyết sau khi sinh, đau nhói vùng ngực và bụng, bị chấn thương tụ huyết. Chữa lỵ trực khuẩn, tiêu chảy, viêm ruột.
Ngày dùng 3 – 9 g, dạng thuốc sắc, hoàn tán, cao lỏng.
7. Hoàng cầm
Radix Scutellariae
Dược liệu là rễ đã phơi hay sấy khô và cạo vỏ của cây Hoàng cầm (Scutellaria baicalensis Georgi), họ Hoa môi (Lamiaceae).
Đặc điểm thực vật:
Cây thuộc thảo, sống nhiều năm, thân có 4 cạnh, lá mọc đối, dài 1,5 – 4 cm, rộng 3 – 8 mm, phiến lá hình mác hẹp, gần như không cuống, mép lá nguyên và có lông. Hoa mọc hướng về một phía ở ngọn. Cứ mỗi nách lá có một hoa. Hoa hình môi, màu xanh lơ.
Thành phần hóa học:
Rễ Hoàng cầm có nhiều flavonoid đã được phân lập và xác định cấu trúc. Các chất quan trọng là baicalein, baicalein-7-O-glucosid, oroxylin A, dihydrooroxylin A, oroxylin A-7-O-glucuronid, wogonin, wogonin A-7-O-glucuronid, chrysin, skullcapflavon, scutellarein, scutellarin, 5,7,2′,6′-tetrahydroxyflavanon. Ngoài thành phần flavonoid, trong rễ Hoàng cầm còn có tanin thuộc nhóm pyrocatechic (2 – 5%), nhựa.
Hoàng cầmScutellaria baicalensis |
Tác dụng và công dụng:
Hoàng cầm có tác dụng hạ nhiệt, làm giảm các triệu chứng của bệnh cao huyết áp, tăng sức và làm chậm nhịp tim, làm giảm co thắt cơ trơn của ruột, có tác dụng an thần và tác dụng kháng khuẩn.
Hoàng cầm dược dùng dưới dạng còn thuốc để chữa bệnh cao huyết áp, nhức đầu, mất ngủ.
Baicalein cũng được chiết xuất và chuyển thành dạng ester phosphat (để tăng độ tan) và được dùng để chữa các bệnh dị ứng.
Y học cổ truyền Hoàng cầm để chữa sốt, ho, lỵ, tiêu chảy, mắt đỏ sưng đau, chảy máu cam, mụn nhọt, thai động không yên. Ngoài ra còn chữa viêm dạ dày và ruột. Dùng dưới hình thức thuốc sắc với liều 12g một ngày, người lớn có thể dùng 30 – 50g/ngày.
8. Hồng hoa
Flos Carthami tinctorii
Dược liệu là hoa đã phơi khô của cây Hồng hoa (Carthamus tinctorius L.), họ Cúc (Asteraceae).
Đặc điểm thực vật:
Cây thuộc thảo, cao 0,6 – 1m, mọc 2 năm. Thân có vạch dọc. Lá mọc so le, không có cuống, mép lá có răng cưa thành gai. Cụm hoa hình đầu họp thành ngù. Hoa màu đỏ hoặc da cam, thành hình ống, phần trên xẻ 5, 5 nhị màu vàng dính liền thành ống. Lá bắc có gai. Quả đóng có 5 cạnh lồi nhỏ.
Cây được nhập trồng ở Sapa, Đà lạt.
Thành phần hóa học:
Các chất quan trọng trong Hồng hoa là các sắc tố thuộc nhóm flavonoid. Có 2 loại sắc tố chính trong Hồng hoa là các sắc tố vàng tan trong nước và các sắc tố đỏ. Sắc tố vàng gồm các chất chalcon C-glycosid là vàng safflor A và B, vàng anhydrosafflor A, B, safflomin A, C, isosafflomin C. Sắc tố đỏ có carthamin, carthamon (hai sắc tố chính của Hồng hoa) và precarthamin A.
Hồng hoaArthamus tinctorius L. |
Tác dụng và công dụng:
Dịch chiết nước Hồng hoa có tác dụng kéo dài thời gian đông máu và ức chế sự ngưng tụ tiểu cầu.
Trong y học cổ truyền, Hồng hoa là một trong những vị thuốc được sử dụng rộng rãi, dùng riêng lẻ hay phối hợp với các thuốc khác. Hồng hoa giúp cho tuần hoàn máu, được dùng trong điều trị các bệnh về tim mạch, về máu như chứng huyết khối, chứng co thắt mạch vành, đau thắt ngực, xuất huyết não, xơ cứng động mạch não. Hồng hoa cũng thường được dùng làm thuốc điều kinh, chữa bế kinh, rong kinh, kinh nguyệt xấu.
Hồng hoa còn được dùng để nhuộm thực phẩm hay nhuộm vải tóc.
9. Xạ Căn
Rhizoma Belamcandae chinensis
Dược liệu là thân rễ để nguyên hay được cắt thành phiến mỏng đã phơi hay sấy khô của cây Rẻ quạt hay còn gọi là Xạ can [Belamcanda chinensis (L.) DC.], họ La dơn (Iridaceae).
Đặc điểm thực vật:
Cây thảo, sống dai, lá mọc thẳng đứng xếp thành 2 dãy, mép lá chồng lên nhau. Bao hoa có 6 bộ màu vàng cam điểm những đốm tía. Quả nang hình trứng, hạt xanh đen hình cầu, bóng. Cây mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi nước ta.
Thành phần hóa học:
Thành phần chính trong Xạ can là các isoflavonoid dạng tự do hay glycosid.
Các isoflavonoid dạng tự do gồm có: tectorigenin, belamcandin, irigenin, dichotomitin.
Các dẫn chất glycosid có tectoridin và iridin.
Các dẫn chất có cấu trúc triterpenoid kiểu iridal: belamcandal, desacetyl-belamcandal, belamcandol A.
Cây Xạ canBelamcanda chinensis L. |
Tectorigenin và tectoridin có tác dụng ức chế sự tạo thành prostaglandin E-2 trên chuột thí nghiệm. Tectorigenin còn có tác dụng kháng nấm và irigenin có tác dụng kích thích tổng hợp RNA.
Các dẫn chất triterpenoid của Xạ can có tác dụng độc với cá.
Trong y học cổ truyền, Xạ can được dùng để chữa viêm họng, ho và khó thở có nhiều đờm.